Gạch không nung chiếm khoảng 26,5% so với tổng sản lượng VLXD
Gạch không nung chiếm khoảng 26,5% so với tổng sản lượng VLXDAug 24, 2020 09:37 AM317 lượt xem

Đây là thông tin được cập nhật tại Hội thảo Sử dụng vật liệu gạch không nung (GKN) và cát nghiền trong các công trình xây dựng, do Sở Xây dựng Điện Biên phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức, tại TP Điện Biên Phủ, ngày 24/8.

Điện Biên hiện có 8 cơ sở sản xuất GKN, tổng công suất hơn 80 triệu viên QTC/năm.

Tăng cường sản xuất và sử dụng GKN

Tại Hội thảo, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) Phạm Văn Bắc đã báo cáo kết quả sau 7 năm thực hiện Quyết định 567/QĐ-TTg (Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển vật liệu xây không nung). Theo đó, hệ thống văn bản pháp lý về khuyến khích sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung (VLXKN) cơ bản được xây dựng đầy đủ. Hệ thống các tiêu chuẩn về sản phẩm, hướng dẫn thi công, định mức sử dụng đã được xây dựng, bổ sung.

Nhận thức của các Bộ, ngành, chính quyền địa phương và cộng đồng về Chương trình phát triển VLXKN đã được nâng lên và có nhiều giải pháp nhằm triển khai chương trình. 57 tỉnh, thành phố đã chủ động và quyết liệt hơn trong việc xóa bỏ các lò gạch thủ công, thủ công cải tiến, lò vòng sản xuất gạch đất sét nung, đồng thời tăng cường chỉ đạo khuyến khích phát triển sản xuất và tiêu thụ VLXKN.

Đặc biệt, chương trình đã được các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân tích cực hưởng ứng, chủ động tìm hiểu công nghệ, đầu tư sản xuất, cung cấp cho thị trường nhiều VLXKN đạt chất lượng, từng bước đa dạng hóa sản phẩm. Một số nhà đầu tư đã tiên phong sử dụng 80 – 100% VLXKN vào công trình.

Hội thảo có sự tham gia đông đảo của đại diện 10 huyện, thành phố thuộc tỉnh Điện Biên,

các doanh nghiệp sản xuất GKN, nhà thầu trên địa bàn.

Ông Phạm Văn Bắc cho biết: Sau 7 năm thực hiện chương trình, tổng công suất thiết kế của 3 loại sản phẩm chính đạt khoảng 7 tỷ viên QTC/năm, sản xuất đạt 6,5 tỷ viên, chiếm khoảng 26,5% so với tổng sản lượng vật liệu xây (năm 2017, ước tính tổng sản lượng vật liệu xây đạt 24,5 tỷ viên).

Với sản lượng trên, hàng năm, Việt Nam sẽ tiết kiệm được 9,5 triệu m3 đất sét (tương đương 450ha đất khai thác ở độ sâu 2m), 940 nghìn tấn than và giảm thải ra môi trường 3,6 triệu tấn CO2.

Bên cạnh thành quả đạt được, Chương trình phát triển VLXKN vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Đơn cử, một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến chương trình hoặc chưa có giải pháp cụ thể nhằm tăng cường sản xuất VLXKN, hạn chế sản xuất và sử dụng đất sét nung.

Nhận thức của các nhà đầu tư, tư vấn, thiết kế, nhà thầu, người tiêu dùng về VLXKN còn chưa đầy đủ, không nghiên cứu, cập nhật các quy định của Nhà nước, dẫn đến tình trạng nhiều công trình Nhà nước, nhà cao tầng trên 9 tầng chưa sử dụng VLXKN theo quy định.

Việc quản lý chất lượng sản phẩm VLXKN ở nhiều nơi chưa được bảo đảm theo quy định. Nhiều sản phẩm không đạt chất lượng vẫn đưa vào công trình, gây nên sự cố.

Để khắc phục tình trạng trên, theo ông Phạm Văn Bắc, thời gian tới, cần tiếp tục thông tin, tuyên truyền phố biến Chương trình phát triển VLXKN và Chỉ thị 10/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sử dụng VLXKN, hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung.

Bộ Xây dựng sẽ tăng cường đôn đốc các địa phương thực hiện nghiên túc Chỉ thị 10/CT- TTg và Thông tư 13/2017/TT- BXD quy định việc sử dụng VLXKN trong công trình xây dựng.

Đặc biệt, Bộ sẽ chú trọng chỉ đạo việc thực hiện lộ trình xóa bỏ lò gạch thủ công, thủ công cải tiến, lò vòng sử dụng nhiên liệu hóa thạch và tăng cường sản xuất, sử dụng VLXKN tại các địa phương.

Hầu hết các công trình sử dụng vốn Nhà nước đều sử dụng GKN

Chia sẻ thực trạng phát triển VLXKN tại địa phương, Phó Giám đốc Sở Xây dựng Điện Biên Bùi Văn Luyện cho biết: Tỉnh đã thực hiện nghiêm túc Chương trình 567.

Cụ thể, Sở đã tham mưu để UBND tỉnh ban hành kế hoạch triển khai Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 và lộ trình xóa lò gạch thủ công, lò thủ công cải tiến, lò vòng sử dụng nhiên liệu hóa thạch trên địa bàn. Sở cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn việc sử dụng VLXKN vào trong công trình sử dụng vốn Nhà nước trên địa bàn theo đúng lộ trình.

Hiện nay, tỉnh Điện Biên đã có 5 cơ sở sản xuất GKN sử dụng công nghệ tiên tiến, được UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư, tổng công suất 67 triệu viên/năm. Ngoài ra, còn có 3 cơ sở khác đã có sản phẩm lưu thông trên thị trường nhưng chưa hoàn thiện thủ tục đầu tư với cơ quan Nhà nước.

Hiện tại, tất cả các công trình sử dụng vốn Nhà nước trên địa bàn cấp huyện trở lên, có cơ sở sản xuất GKN đều sử dụng GKN theo quy định. Hơn thế, nhiều công trình xây dựng của hộ gia đình, cá nhân cũng đã sử dụng GKNủ

Tuy nhiên, theo ông Luyện, thị trường tiêu thụ GKN trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn do nhận thức và thói quen của người dân về việc sử dụng gạch đất sét nung vào công trình là tất yếu. Còn GKN chỉ sử dụng để xây dựng các hạng mục, công trình phụ trợ, tường rào, chuồng trại…

Đáng ngại nhất là một số công trình sử dụng vốn Nhà nước có sử dụng GKN nhưng còn trà trộn GKN không đủ tiêu chuẩn, làm ảnh hướng đến chất lượng công trình.

Trong quá trình sử dụng GKN vào công trình còn có một số hạn chế như sản phẩm GKN chưa đa dạng về mẫu mã, kích thước mà chủ yếu vẫn sản xuất theo kích thước của gạch nung truyền thống, chất lượng sản phẩm không đồng đều. Thợ xây chưa được đào tạo, tập huấn thao tác xây, trát, lắp đặt thiết bị âm tường đối với tường sử dụng GKN. Việc cắt, khoan tường, khối xây để thi công các đường ống điện, nước, hệ thống thông tin… còn gặp khó khăn.

Đáng nói nhất là qua phản ánh của một số chủ đầu tư, đơn vị thi công và khảo sát thực tế, hiện tượng nứt tường sau khi trát của tường sử dụng GKN nhiều hơn gạch truyền thống. Vết nứt chủ yếu xuất hiện trong giai đoạn hoàn thiện công trình, theo mạch xây. Tường bao quanh một số công trình có hiện tượng ẩm mốc, thấm nước mưa, gây mất thẩm mỹ và ảnh hưởng đến quá trình sử dụng công trình.

Ngoài ra, GKN xi măng cốt liệu (gạch bê tông) còn nặng, làm tăng tổng mức đầu tư của công trình, do phải tăng khả năng chịu lực của kết cấu đỡ tường.

Ông Luyện cho biết thêm: Dù tỉnh Điện Biên đã quyết liệt trong việc xóa bỏ gạch đất sét nung (lộ trình sau ngày 31/12/2016 đối với lò đứng, sau 31/12/2017 đối với lò vòng), tuy nhiên đến nay các cơ sở này vẫn đang hoạt động sản xuất, do tỉnh chưa có cơ chế, kinh phí để hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi ngành nghề. Thực tế này ít nhiều hạn chế việc phát triển GKN trên địa bàn.

Từ thực tế tại địa phương, Phó Giám đốc Sở Xây dựng Điện Biên Bùi Văn Luyện đề xuất, Chính phủ, các Bộ, ngành chức năng nghiên cứu hoàn thiện cơ sở pháp lý về phát triển VLXKN; Xây dựng bộ tiêu chuẩn, quy trình đầy đủ và khoa học cho việc sử dụng GKN trong các công trình xây dựng từ khâu sản xuất, thiết kế, thẩm định cho đến thi công, bảo dưỡng, nghiệm thu, bảo trì.

Các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất nhằm tăng chất lượng gạch, thiết kế quy cách gạch cho phù hợp, đa dạng về mẫu mã và kích thước, tăng cường độ rỗng của sản phẩm để giảm tải trọng công trình. Tất cả các cơ sở sản xuất phải xây dựng quy trình sản xuất bảo đảm chất lượng từ khâu lựa chọn, kiểm định chất lượng nguyên vật liệu đầu vào, bảo dưỡng, bảo quản sản phẩm.

Các nhà khoa học nghiên cứu chế tạo vữa riêng biệt cho GKN theo hướng tăng độ dẻo, giảm độ mất nước, tăng độ kết dính và hạn chế co ngót.

Cần thường xuyên đào tạo, tập huấn cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xây dựng về quản lý chất lượng công trình sử dụng GKN, nhất là ở giai đoạn thiết kế và thi công; Ứng dụng khoa học kỹ thuật, có phương tiện, dụng cụ thi công chuyên dụng phục vụ thi công GKN.

Cần có cơ chế chính sách, kinh phí hỗ trợ các cơ sở sản xuất gạch đất sét nung thực hiện việc ngừng hoạt động sản xuất theo lộ trình của Chính phủ và UBND tỉnh; khuyến khích chuyển sang đầu tư cơ sở sản xuất GKN.

Các nhà khoa học và doanh nghiệp chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong việc phát triển VLXDKN.

Cũng tại Hội thảo, các chuyên gia đã phổ biến đến các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực xây dựng Điện Biên các tiêu chuẩn kỹ thuật sử dụng VLXKN trong các công trình xây dựng đảm bảo yêu cầu, chất lượng từ khâu sản xuất, thiết kế, thẩm định, thi công xây dựng, giám sát, nghiệm thu, quản lý chất lượng… nhằm nâng cao chất lượng các công trình sử dụng GKN. Đồng thời, giúp các đơn vị sản xuất nắm rõ được quy trình sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm, để đảm bảo sản phẩm GKN đạt chất lượng tốt nhất.

Một nội dung quan trọng khác cũng được hội thảo đề cập là thực trạng sản xuất và tiêu thụ cát nghiền thay thế cát tự nhiên trong công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Báo điện tử Xây dựng sẽ tiếp tục đề cập vấn đề này trong bài viết khác.

 

Theo Báo Xây dựng